Thứ Hai, 16 tháng 9, 2013

Những viên ngọc của lịch sử môtô thế giới


1. Crocker 1938



Barber-Museum-1938-Crocker-3873-13790616

Câu chuyện về Albert Crocker xuất phát từ nửa đầu những năm 1900, khi hàng trăm công ty xe máy thế giới phải cạnh tranh vì thị trường mới sơ khai, chưa có nhiều dòng xe để phát triển. Đến những năm 1920, còn 3 hãng lớn nhất là Harley-Davidson, Excelsior-Henderson và Indian. Albert Crocker lúc đầu làm việc cho Thor Motorcycles, mài dũa tay nghề trước khi đến với Indian, trở thành nhà phân phối xe ở khu vực Los Angeles. 


Ở đây, ông quyết định sản xuất chiếc xe của riêng mình để cạnh tranh trực tiếp với ba ông lớn, kết quả là Crocker ra đời năm 1936. Xe trang bị động cơ V-twin 45 độ dung tích 986 phân khối làm mát bằng không khí. Từ 1936-1040 có khoảng 75 chiếc Crocker ra đời.


2. Bohmerland 1925



Barber-Museum-1925-Bohmerland-3374-13790

Ra đời ở cộng hòa Czech, sử dụng động cơ 600 phân khối, Bohmerland là chiếc môtô đại diện vào giai đoạn 1925. Có hệ thống giảm xóc ở phía trước, vành đúc. Đến năm 1970 kiểu vành xe này mới thành chuẩn trên các xe của Nhật.


Điều khiến Bohmerland không tồn tại thành chuẩn là bởi kích thước khá cồng kềnh, có thể chở tới 4 người. Thời gian sống của xe từ 1924-1939, trước chiến tranh thế giới thứ II nổ ra. Trong thời gian này, có trên 1.000 xe xuất xưởng.


3. Scott Sprint Special 1923



Barber-Museum-1923-Scott-Sprin-3986-5906

Động cơ 2 thì 2 xi-lanh dung tích 596 phân khối, làm mát bằng chất lỏng, với những van phun dầu và xả tự động về cơ bản vẫn được áp dụng tới ngày nay. Với những công nghệ này, những đối thủ của Scott ngày đó dường như không có cơ hội.


4. Honda RC161 1960



Barber-Museum-1960-Honda-RC161-9306-1379

Trước khi RC161 ra đời năm 1960, Honda không có lợi thế so với các đối thủ trong việc sản xuất động cơ. RC161 sử dụng cỗ máy 249 phân khối, 4 xi-lanh cho đường đua Grand Prix với hộp số 6 cấp và có thể đạt ngưỡng vòng tua tới 14.000 vòng/phút. 


Năm 1961, Honda ra đời RC162 phát triển dựa trên RC161 và giành chiến thắng 10 trong số 11 giải đua trong năm.


5. AJS E95 1954



Barber-Museum-1954-AJS-E95-3593-13790616

AJS E95 là chiếc môtô nhanh nhất của Anh tại giải Grand Prix. Xe trang bị động cơ 499 phân khối 2 xi-lanh song song, là mẫu xe đầu tiên của AJS sau khi Thế chiến II kết thúc.


6. Moto Guzzi Normale 1924



Barber-Museum-1924-Moto-Guzzi-2299-9087-

Vào những năm 1920, Moto Guzzi đồng nghĩa với nhanh, lạ và đẹp. Normale là chiếc xe đầu tiên được người sáng lập hãng Carlo Guzzi thiết kế. Xe trang bị động cơ 498 phân khối xi-lanh đơn làm mát bằng không khí với bánh đà ở ngoài, chỉ cho công suất khoảng 8 mã lực. Kiểu xi-lanh đơn nằm ngang và bánh đà ở ngoài được Guzzi sử dụng trong 50 năm trước khi khai tử năm 1976.


7. Morbidelli V8



Barber-Museum-Morbidelli-V8-3162-1379061

Năm 1997, Giancarlo Morbidelli V8 thực hiện giấc mơ sản xuất xe đua Grand Prix của mình với mẫu Morbidelli V8. Xe sử dụng động cơ 847 phân khối 8 xi-lanh hình chữ V, 32 van, làm mát bằng chất lỏng. Chỉ có 4 chiếc được sản xuất.


8. Kawasaki KZ2600 V12



Barber-Museum-Kawasaki-KZ2600-8561-4529-

Allan Millyard làm việc cho Kawasaki đã sử dụng mẫu Kawasaki KZ1300 động cơ V6 để phát triển KZ2600 động cơ V12. Ngoài chiếc xe này, Allan còn nổi tiếng với những chiếc Kawasaki khác như H1, H2 động cơ 5 xi-lanh, Z1 động cơ 8 xi-lanh. Tất cả đều được lưu trữ tại bảo tàng Barber.


9. Honda 1953



Barber-Museum-1953-Honda-4852-1379061691

Xe đầu tiên của Honda đến Mỹ vào 1959 nhưng Honda Soichiro đã sản xuất môtô một thập kỷ trước đó. Honda đời 1953 tại bảo tàng Barber là một trong những mẫu xe đánh dấu lứa sản phẩm đầu tiên của hãng. Xe sử dụng động cơ 145 phân khối xi-lanh đơn làm mát bằng không khí.


Minh Hy
Ảnh: Motorcycle




Ôtô – Xe máy – VnExpress RSS



Những viên ngọc của lịch sử môtô thế giới

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét